Breaking News
Loading...
Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Chuẩn mực "khác biệt" về vẻ đẹp của phụ nữ Á Đông

01:30


Là một đất nước có nhiều tôn giáo lớn, quan niệm về cái đẹp của người Ấn Độ cổ đại khá khắt khe, nó đòi hỏi sự hài hòa giữa tôn giáo và không tôn giáo, giữa sự siêu thoát và trần tục.


Trong cảm quan của người Ấn, “vẻ đẹp nhục cảm” chính là khía cạnh trần tục của “cái đẹp”. Bản thân “nhục cảm” là một thuật ngữ dùng để chỉ loại khoái cảm do ăn uống, thỏa mãn nhục dục… đem lại.


“Cái đẹp nhục cảm” của người Ấn mang đậm dấu ấn tín ngưỡng phồn thực. Theo đó, chân dài, cao ráo hay mặt xinh đẹp chỉ là thứ yếu, còn bầu ngực, cơ quan sinh dục to mới đích thực là chuẩn mực của một người phụ nữ đẹp.


Trong các bức phù điêu nghệ thuật Ấn Độ, ta dễ dàng nhận ra người Ấn thường cường điệu hóa các bộ phận sinh sản. Sử thi Ramayana nổi tiếng cũng dành những phần miêu tả về thân thể xinh đẹp của người phụ nữ rất chi tiết cụ thể và đặc biệt chú trọng vẻ đẹp của các cơ quan sinh dục. Chẳng hạn, nàng Sita “hông đầy đặn”, “ngực nở nang”…


Tuy nhiên, “cái đẹp nhục cảm” không phải là khái niệm đẹp hoàn chỉnh trong quan niệm Ấn Độ. Họ đề cao cái đẹp thân thể của người phụ nữ nhưng phải gắn với tư cách, nghĩa là sự trinh tiết, lòng chung thủy.


Xuyên suốt các giai đoạn lịch sử Nhật Bản, làn da trắng trẻo và mái tóc đen luôn là chuẩn mực hàng đầu của người con gái đẹp. Quan niệm này xuất hiện từ thời Nara (710-793). Thời đó, giới quý tộc nữ còn khởi xướng phong trào nhổ lông mày cũng như nhuộm răng đen để thể hiện đẳng cấp cao quý.


Cộng với đó, làn da trắng và tóc đen vẫn là ưu tiên số 1. Để có được làn da mong ước, phụ nữ xứ hoa anh đào sử dụng rất nhiều phấn để bôi lên mặt giống các Geisha.


Quan niệm về cái đẹp ở Nhật tiếp tục thay đổi vào thời Genroku (1688-1703) khi đôi gò má tròn, lông mày rậm trở thành “mốt”. Qua giai đoạn Kyoho (1716-1735), cô gái quyến rũ không phải là người có khuôn mặt tròn ''vành vạnh'' nữa mà là người có khuôn mặt hơi dài, hình thể thanh mảnh.


Phụ nữ Nhật Bản thời kỳ bị Âu hóa.


Người Trung Hoa xưa tuân theo khuôn khổ của Đạo giáo và Nho giáo, do đó chuẩn mực về cái đẹp phụ nữ cũng chịu sự chi phối từ đó.


Do đó, cái đẹp bên ngoài không sánh được với cái đẹp bên trong, cái đẹp của sự thanh tĩnh, thoát tục. Minh chứng rõ nhất là những bức tranh tiên cô trong Đạo giáo thường uyển chuyển như nước, trong vắt như thủy tinh, thiên về thanh mảnh hơn là thân hình phốp pháp, đầy đặn…


Trong khi đó, với Nho giáo, tứ đức Công, Dung, Ngôn, Hạnh luôn được đặt lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa Công (năng lực làm việc của người phụ nữ, sự đảm bảo cho cuộc sống gia đình) mới là ưu tiên số 1. Còn Dung (vẻ đẹp bên ngoài) chỉ đứng hàng thứ 2. Theo quan niệm này, người phụ nữ đẹp phải có khuôn mặt cân phân về cả tam đình, ngũ nhạc.


Chuẩn mực về cái đẹp ở Việt Nam có một phần quan trọng là tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.


Theo đó, người Việt cổ coi người phụ nữ đẹp là phải mang vẻ đẹp dịu dàng, hiền thục, phúc hậu và giản dị. Cô gái nào vóc dáng nhỏ nhắn, cao vừa phải, thân hình đầy đặn, nước da trắng hồng và mái tóc dài, đen nhánh thì mới là hoàn hảo, lý tưởng.


Thêm nữa, vẻ đẹp được các thiếu nữ Việt cổ hướng tới là sự nền nã, chuẩn mực với phong cách ăn mặc kín đáo, giản dị trong tà áo dài truyền thống. Phụ nữ Việt xưa rất ít làm đẹp, chủ yếu sử dụng các loại mỹ phẩm từ thiên nhiên và cũng chỉ dùng chúng trong các dịp lễ hội đặc biệt.



Vào khoảng đầu thế kỷ 20, hàm răng đen nhánh là thước đo vẻ đẹp của người phụ nữ Việt một thời. Bởi theo quan niệm thời xa xưa, “da trắng, răng đen” mới tạo sự tương phản cao và đầy nghệ thuật, thể hiện sự duyên dáng cho hàm răng. Chính vẻ đẹp này đã thu hút bao hồn vía các chàng trai thời ấy.


Ngày nay, quan niệm về cái đẹp của người Việt Nam đã có nhiều sự thay đổi. Dẫu vậy, một người phụ nữ đẹp hoàn hảo dù ở thời kỳ nào cũng phải đẹp trên cả 2 phương diện: ngoại hình và tâm hồn.

Xem bài viết đầy đủ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Toggle Footer